1. Đặt vấn đề:
Ngày 07/02/2024, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 213-KH/TU, ngày về học tập, quán triệt chuyên đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”; Ban Thường vụ Đảng uỷ khối cũng đã ban hành Kế hoạch 185- KH/ĐUK ngày 23/02/2024 để triển khai thực hiện.
Mục tiêu của chuyên đề nhằm thực hiện có hiệu quả các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, ngang tầm nhiệm vụ; nhất là việc thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội để tỉnh phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế phát triển ngày càng tốt hơn. Đây là dịp để cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm bắt những nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, những quan điểm, chủ trương của Đảng về thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đồng thời, tích lũy thêm những thông tin bổ ích để nâng cao hơn nữa nhận thức, vận dụng cụ thể hóa vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
Với tinh thần đó, việc Chi uỷ Chi bộ Cơ quan Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh lựa chọn nội dung sinh hoạt chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” là phù hợp.
2. Cơ sở lý luận để nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ và tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội
2.1.1 Dân chủ và thực hành dân chủ:
Bác Hồ của chúng ta lý giải dân chủ chủ một cách giản dị, dễ hiểu, đó là: “dân chủ” là “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ở nước ta, chính quyền của nhân dân, do nhân dân làm chủ… nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr.263).
2.1.2. Thực hành dân chủ:
Trong bài viết “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, Bác lên án hiện tượng một số cán bộ “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 176) và Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”. Từ đó dẫn đến việc lãnh đạo điều hành theo cảm tính, mệnh lệnh, “độc tài”, dẫn đến nhiều hành vi sai trái.
Về thực hành dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu như dân chủ là “của quý báu nhất của nhân dân” thì thực hành dân chủ là “chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 325). Trong mọi hoạt động, Bác luôn coi trọng việc thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ. Người nhấn mạnh: “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân”. “Phải thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”. Để thực hành dân chủ tốt, Người yêu cầu đảm bảo 03 yếu tố cơ bản sau: (1) Phải xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ (2) phải xây dựng các tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội (3) Dân chủ nhất thiết phải đi đến tập trung và tập trung phải trên nền tảng dân chủ. Có nghĩa là “Tập trung trên nền tảng dân chủ” và “Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”; “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 380) và giữa dân chủ và tập trung là sự hòa quyện hữu cơ, là sự “tương sinh” mật thiết nên nếu thiếu một trong hai yếu tố thì chẳng những Đảng sẽ rơi vào căn bệnh vô tổ chức hoặc độc đoán, chuyên quyền, mà bản thân yếu tố còn lại cũng không thể trở thành “chính nó”, đúng như bản chất của nó. Thấu hiểu quan hệ biện chứng đó, nên theo Người, mở rộng dân chủ trong Đảng nhất thiết phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật, phải tránh căn bệnh “dân chủ quá trớn”. Mặt khác, do dân chủ là “của quý báu nhất” nên nó phải được bảo vệ nghiêm bằng cách triệt tiêu những yếu tố phản dân chủ, có nghĩa là phải nâng cao hiệu quả của pháp luật, tăng cường pháp chế. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ”.
2.1.3. Về pháp chế và kỷ cương xã hội, theo Hồ Chí Minh, để xây dựng một đất nước độc lập, dân chủ, tự do thực sự thì phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Khi có pháp luật rồi thì phải thi hành tốt, thi hành thật đúng để xây dựng một kỷ cương nhà nước, một trật tự xã hội nghiêm minh, từ đó mới có pháp chế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tinh thần pháp chế trong các bài nói, bài viết và sự mẫu mực tôn trọng pháp luật của mình và trong chỉ đạo xây dựng nền pháp chế cách mạng, pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhất là trong việc chỉ đạo xây dựng các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Tại Điều 4, Mục A, Chương II của Hiến pháp 1946, có 3 điều quy định nghĩa vụ công dân thì có 2 điều liên quan đến tinh thần pháp chế là: nghĩa vụ “tôn trọng Hiến pháp” và nghĩa vụ “tuân theo pháp luật”, hai nghĩa vụ này được đặt ra ngay sau nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Đến Hiến pháp năm 1959, tinh thần pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ nét và đầy đủ hơn tại Điều 6: "Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” và tại Điều 39: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt xã hội”. Như vậy, chúng ta thấy quan niệm của Bác về pháp chế đã được xác định rõ là tinh thần tôn trọng và tuân thủ luật pháp của mọi công dân và công chức nhà nước.
2.2 Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội
2.2.1.Về thực hành dân chủ
Kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ (THDC), qua các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và cụ thể hơn về vai trò, tầm quan trọng của phát huy dân chủ. Trước giai đoạn đổi mới, Đảng ta đã xây dựng được lý luận về làm chủ tập thể và chế độ làm chủ tập thể nhưng chưa dự liệu đầy đủ đến điều kiện thực tế nên THDC chỉ đạt được ở mức độ nhất định. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta nêu rõ, để xây dựng và thực hiện cuộc cách mạng XHCN, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phải không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đến Đại hội VII (1991) xác định: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”. Như vậy, thực chất của công cuộc đổi mới ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ là phương thức, nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý của Nhà nước và xã hội, trong đó, mọi thành viên được tham gia quyết định các vấn đề của đất nước. Tinh thần này tiếp tục được nêu rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991) mà Đại hội đã thông qua, đó là “Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước, do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp”. Đại hội VIII (1996), Đảng ta tiếp tục nêu rõ việc phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Vì vậy, Đại hội cho rằng, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và thực hiện “làm chủ thông qua đại diện là các cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại các cơ sở phù hợp với luật pháp của Nhà nước”. Đại hội lần thứ IX (2001) đã thể hiện bước tiến mới trong nhận thức khi bổ sung nội dung dân chủ vào mục tiêu chung của thời kỳ quá độ ở nước ta là “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đến Đại hội lần thứ X (2006), Đảng ta đã bổ sung đặc trưng thứ nhất trong mô hình XHCN là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và phát triển đặc trưng thứ hai từ “do nhân dân lao động làm chủ” thành “do nhân dân làm chủ”. Quan điểm trên thể hiện bước tiến về mặt nhận thức và thể hiện khá rõ bản chất của dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà Đảng ta xây dựng. Đại hội cũng yêu cầu phải “Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân”. Qua đó, khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đồng thời, Đảng ta cũng nêu rõ, thực hiện dân chủ là phải tạo điều kiện để nhân dân tham gia ý kiến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các cấp, các ngành và mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.
Đến Đại hội lần thứ XI (2011) Đại hội đã xác định cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là một trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Qua đó, cho thấy Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, vai trò của dân chủ để từ đó nâng cao ý thức, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân và xây dựng cơ chế để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình. Vì vậy, Cương lĩnh nêu rõ “Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…” và “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”. Đại hội lần thứ XII (2016), Đảng cho rằng để thực hành dân chủ rộng rãi, nhiệm vụ trọng tâm là tạo bước chuyển biến căn bản từ nhận thức đến thực tiễn thực hành và phát huy dân chủ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho họ hiểu rằng nhân dân phải là chủ thể, là người thực hiện quyền lực tuyệt đối, phải thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ. Song song với đó, để thực hành dân chủ mang lại những kết quả, cần tăng cường các hoạt động giám sát đối với công việc của Nhà nước và hệ thống chính trị, trong đó, Đại hội nhấn mạnh: “Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”38. Đồng thời, Đại hội XII còn nhận thức rất đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ trong Đảng và cho rằng phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội.
Tại Đại hội lần thứ XIII (2021), Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán về phát huy dân chủ XHCN, đưa việc thực hành dân chủ đi vào thực chất khi khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Như vậy, Đảng ta đã bổ sung giá trị “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” vào phương châm thực hành dân chủ. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về dân chủ, tạo động lực mạnh mẽ để mỗi người dân nỗ lực phấn đấu cho lợi ích chung, góp phần quan trọng bảo đảm cho cơ chế thực hành dân chủ có hiệu quả. Đồng thời, Đại hội yêu cầu, để đảm bảo thực hành dân chủ cần tăng cường phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trực tiếp liên quan, đó là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ”.
Như vậy, thông qua các kỳ Đại hội, quan điểm của Đảng về thực hành dân chủ ngày càng được nhận thức rõ và đi vào thực tiễn cuộc sống. Đảng ta luôn xác định thực hành dân chủ có ý nghĩa quyết định đối với tổ chức, hoạt động của cả hệ thống chính trị, của toàn bộ đời sống xã hội. Thông qua việc thực hành dân chủ sẽ tạo được tính đồng thuận xã hội, Nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chung tay góp sức với Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
2.2.2. Về tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm kỷ cương xã hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, là biện pháp để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, quản lý Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, là điều kiện bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Chính vì vậy, việc tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm kỷ cương xã hội là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Đại hội lần thứ XIII (2021), Đảng ta nhấn mạnh bản chất quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quyền lực của Nhân dân. Do vậy, quyền lực này phải được bảo đảm bằng hệ thống pháp luật khoa học và hoàn chỉnh, pháp luật là phương tiện thực hành dân chủ, là công cụ bảo vệ nền dân chủ XHCN. Cho nên, Đại hội nêu rõ: “Tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần thượng tôn pháp luật, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Đảng ta đã rất sáng suốt khi chú trọng việc tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, phép nước dựa trên tinh thần thượng tôn pháp luật vì thượng tôn pháp luật là điều kiện tiên quyết để dân chủ được thực hành rộng rãi và thực chất. Điều quan trọng là phải nâng cao thực thi nghiêm chỉnh pháp luật của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên để tiếp tục tạo động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Nghị quyết số 27 (Khoá XIII) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới cũng xác định, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân… Nghị quyết là sự cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, là sự tổng kết sâu sắc về lý luận và thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
2.3. Nhận thức mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Trên thực tế, qua các kỳ Đại hội Đảng trong giai đoạn đổi mới, Đảng ta luôn nhận thức, xử lý tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đồng thời, nhận định hai vấn đề trên có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, là điều kiện, tiền đề, tác động lẫn nhau. Trong đó, pháp chế được tăng cường, nghiêm minh là yếu tố bảo đảm và bảo vệ quyền dân chủ được thi hành thực chất trong thực tiễn; thực hành dân chủ được mở rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp chế được tăng cường và kỷ cương trong xã hội được tôn trọng. Như một tất yếu, các phạm trù dân chủ, thực hành dân chủ, pháp chế, kỷ cương xã hội không thể tồn tại, phát huy được giá trị, vai trò của mình nếu tách rời hay đối lập với nhau. Dân chủ và pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội cần một cơ chế vận hành tổng thể để bảo đảm thực hiện một cách bền vững ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
3. Thực trạng về thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương tại Chi bộ Cơ quan Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh hiện nay
Chi bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh hiện có có 31 đảng viên (có 01 đảng viên dự bị), 14 đảng viên là nữ, chiếm 45,2% chia thành 03 Tổ đảng; trong đó có 12 đảng viên là cán bộ dân cử; Chi uỷ có 07 đồng chí, Bí thư là Chánh Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh. Với đặc thù của Chi bộ, có nhiều đảng viên là lãnh đạo Đoàn ĐBQH tỉnh và các cơ quan HĐND tỉnh. Thời gian qua, Chi uỷ, Chi bộ đã lãnh đạo đảng viên và quần chúng cơ quan thực hành tốt dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nỗi rõ:
Chi uỷ thường xuyên chỉ đạo rà soát, ban hành cơ bản đủ các quy chế, quy định của cơ quan theo quy định của Đảng và pháp luật nhà nước. Trong đó, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; góp phần xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu.
Thực hiện dân chủ trong cơ quan được gắn liền với sự lãnh đạo toàn diện của Chi bộ Văn phòng, bảo đảm nguyên tắc tập trung, dân chủ; phát huy vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong cơ quan. Bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ theo quy định của pháp luật; cụ thể bao gồm: Dân chủ trong nội bộ cơ quan; Những nội dung phải công khai để cán bộ, công chức, người lao động biết; Những nội dung cán bộ, công chức, người lao động tham gia ý kiến, người đứng đầu cơ quan quyết định; Những nội dung cán bộ, công chức, người lao động kiểm tra, giám sát; Dân chủ trong quan hệ và giải quyết công việc với công dân, cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan.
Nguyên tắc Pháp chế được tôn trọng, trở thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy. Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi cán bộ, công chức, người lao động chấp nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương vẫn còn một số hạn chế.
Một bộ phận đảng viên, công chức nhận thức chưa đầy đủ văn hóa dân chủ và văn hóa pháp luật trong hoạt động nên việc thực hiện dân chủ và pháp chế có lúc chưa đầy đủ; có việc chưa kết hợp nhịp nhàng giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương trong một số hoạt động.
Ý thức tuân thủ quy chế, quy định trong nội bộ cơ quan chưa thật sự trở thành tự giác, trở thành thói quen, cao hơn là thành văn hóa đối với mọi hoạt động của cơ quan.
Trong sinh hoạt đảng, dân chủ được phát huy nhưng có lúc, có việc chưa đúng mức. Kỷ cương, kỷ luật có lúc chưa nghiêm. Quyền làm chủ của đảng viên, công chức, người lao động chưa được phát huy tối đa; cấp dưới chưa mạnh dạn đề xuất ý kiến, bày tỏ chính kiến với lãnh đạo cấp trên; công chức cấp dưới ngại nói, ngại va chạm.
Trong qua chế nội bộ có lúc chưa xác định rõ trách nhiệm cụ thể của cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động nên có lúc có biểu hiện đùn đầy trách nhiệm cá nhân; thiếu cơ chế rõ ràng để khuyến khích những cán bộ, đảng viên, công chức nhiệt tình, tâm huyết.
* Nguyên nhân:
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan; trong đó, nguyên nhân chủ quan vẫn là cơ bản. Cụ thể là:
- Sự chỉ đạo, lãnh đạo của Chi ủy và cơ quan trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn có hạn chế nhất định
- Công tác giáo dục đạo đức, định hướng các giá trị đạo đức, tinh thần lành mạnh cho cán bộ, đảng viên, người lao động chưa sâu, kỹ. Việc triển khai Đề án Văn hoá công vụ chưa được coi trọng và đầu tư đúng mức, chưa ngang tầm với cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh.
- Chất lượng thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan có việc chưa được phát huy đúng mức.
- Công tác kiểm tra, giám sát về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trong đó có nêu gương về đạo đức, tuân thủ pháp luật, pháp chế, kỷ cương chưa nhiều và thường xuyên.
4. Một số giải pháp để nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong thời gian đến.
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Chi uỷ trong việc nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trước hết trong nội bộ cơ quan.
Cơ sở quan trọng để có thể giải quyết đúng đắn, đầy đủ mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, đó chính là nhận thức đúng bản chất, ý nghĩa, tầm quan trọng của mối quan hệ cốt lõi này. Nhận thức đúng đắn mối quan hệ này được đặt ra đối với từng cá nhân, tổ chức và đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, lãnh đạo tổ chức đảng, đoàn thể cơ quan.
Hai là, Chi uỷ nghiên cứu có giải pháp xây dựng văn hóa thực hành dân chủ và pháp luật; quan tâm công tác giáo dục dân chủ, pháp luật và đạo đức công vụ cho đảng viên, công chức, người lao động.
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định trong cơ quan, góp phần làm cho mọi hoạt động được dân chủ, minh bạch; đẩy mạnh thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương.
Bốn là, Đẩy mạnh công tác kiểm tra của chi bộ, công tác thanh tra của Thanh tra nhân dân cơ quan đối với việc thực hiện nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, của chi bộ.
Năm là, gắn chặt thực hành dân chủ với thực hành đoàn kết nội bộ, xây dựng môi trường đồng thuận, đồng thời đẩy mạnh học tập và làm theo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là phong cách dân chủ, gần dân, tin dân, trọng dân, thương dân, vì dân của Hồ Chí Minh.
------------------
H.T.L
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, XII. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, in trong sách: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2019.
4. Tăng Thị Thu Trang (2023) Thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế đảm bảo kỷ cương xã hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay - Tạp chí công sản số tháng 8 năm 2023.